Sunday, April 9, 2017

Những “dã thú” tiêu biểu của Fauvism


“Bathers,” (Những người tắm) 1907, của André Derain – một nhân vật quan trọng của phong trào Dã thú

Kỳ trước chúng ta đã tìm hiểu đôi chút về khởi nguồn của phong trào Dã thú và người cầm cờ chỉ huy – Matisse. Kỳ này sẽ đi sâu hơn về những yếu tố hợp nhất lại để tạo nên phong trào Dã thú.
Trên thực tế, có nhiều nhà sử học không phân loại Fauvism là một phong trào theo đúng nghĩa. Fauvism không có một bản tuyên ngôn riêng hoành tráng như Futurism, không có các triển lãm chung như Impressionism, lại càng không có một nhóm họa sĩ tự “vỗ ngực xưng danh” liên kết với nhau như Dadaism.
Các họa sĩ Fauvism “hơi hơi” quen biết nhau, vẽ những bức tranh “hơi hơi” giống nhau, và tình cờ triển lãm ở cùng một salon vào năm 1905, sự kiện đem lại cho họ cái tên bầy Dã thú. Khi Fauvism vừa bắt đầu có tiếng vang thì nó cũng dần nguội lạnh, tổng cộng chỉ khoảng 3 năm. Các Fauvist, sớm hay muộn, đều đổi hướng đi, và Fauvism như một thời tuổi trẻ bồng bột song có tính bước ngoặt trong sự nghiệp của họ. Nói gì thì nói, vẫn không thể phủ nhận đỉnh cao của Fauvism khi nó đang ở thời hoàng kim và những ảnh hưởng rực rỡ của nó lên các thế hệ nghệ sĩ từ 1908 đến nay.
André Derain, “Ba người trong cỏ”

Sẽ không quá lời nếu nói rằng, nếu không có Impressionism thì cũng không thể có Fauvism. 30 năm cuối của thế kỉ 19 đã chuẩn bị cho màu sắc trở thành một đơn vị độc lập trong hội họa, Từ đó màu sắc có thể đàng hoàng làm nhân vật chính chứ không phải là người, hay cá, hay hoa, hay bất cứ cái gì. Những nhân vật kia chỉ đơn thuần là sàn diễn để màu sắc được phô bày, hay là những căn phòng để chứa màu sắc mà thôi.
Và Impressionism đã dọn đường cho Fauvism để điều đó trở thành hiện thực. Trong quá trình Impressionism được thai nghén rồi bừng nở và lụi tàn, các họa sĩ Ấn tượng đã thử nghiệm với tất cả, trước tiên là chuyển sang vẽ phong cảnh để đỡ phải tuân theo các quy tắc hình thức của vẽ người. Sau đó là những dấu phẩy màu của Impressionism, những dấu chấm màu của Pointillism, những vệt màu của Divisionism - chúng giúp cho các đường cọ thoát ly dần khỏi đối tượng được mô tả.
Claude Monet, “Mặt trời lên” – trường phái Ấn tượng

Georges Seurat, “Một chiều Chủ nhật trên đảo La Grande Jatte”, thuộc Pointillism

Jean Metzinger, “Điệu nhảy," 1906, thuộc Divisionism

Vào khoảng 1905, sự thử nghiệm với màu sắc đã sắp bước đến giai đoạn bão hòa và các dã thú của Fauvism, giống như ngọn nến cháy lên lần cuối trước khi tắt hẳn, đã đẩy cuộc chơi màu sắc của Impressionism đến tận cùng.
Được dẫn dắt bởi những bức tranh của Van Gogh và Gauguin, các họa sĩ Fauvist sản xuất ra những bức tranh “kì quặc”: có những mảng bị phủ sơn đậm đặc, lại có những mảng để trống không. Và cũng chính những Fauvist đã vận dụng màu sắc khác hẳn nhau song lại đặt cạnh nhau để đánh lừa thị giác: khiến bức tranh có cảm giác về đậm nhạt, sáng tối, mà không dùng những biện pháp cổ truyền như đánh bóng hoặc pha màu.
Henri Matisse, “Chàng thủy thủ trẻ," 1906

Một điều bất ngờ với nhiều người: tuy Matisse là Dã thú nổi tiếng nhất, nhưng nếu chiếu theo các điều lệ cơ bản của Fauvism, thì Matisse vẫn còn thiếu nhiều tiêu chuẩn. Đấy là bởi tuy sẵn lòng “chơi nổi” với màu sắc, Matisse luôn luôn hướng tới sự êm dịu, bình thản, rõ ràng của hội họa Pháp truyền thống. Nếu muốn hình dung được rõ ràng tính chất Pháp ấy, không thể không tham khảo những bức tranh của Puvis de Chavannes, một vị thầy của những người thầy:

Pierre-Cécile Puvis de Chavannes, “Những cô gái bên bờ biển," 1879

Puvis de Chavannes, “Hope,” (Hy vọng) 1872

Bố cục cổ điển của Puvis de Chavannes đem lại cảm giác hiền hòa, bình ổn, song các nhân vật của ông vẫn có một vẻ uy nghiêm và vững chãi. Puvis de Chavannes thường miêu tả những đề tài kinh thánh hoặc đạo đức. Matisse học tập bố cục từ Puvis de Chavanes để diễn tả vẻ đẹp êm dịu của cuộc sống, thấy rõ nhất trong bức Luxe, Calme et Volupte (tên lấy từ tập thơ Những bông hoa ác của Baudelaire):

Henri Matisse, "Luxe," (Xa hoa)
Trong những Dã thú còn lại, hai người tuân thủ nghiêm ngặt những quy chuẩn của Fauvism nhất là Derain và Dufy.
Mặc dù Andre Derain đã gặp gỡ Matisse và những Dã thú khác tại Paris từ 1900, ông phải hoàn thành nghĩa vụ quân sự và chỉ đến 1904 ông mới quay lại để bắt kịp với phong trào.
"The Chawed Rosin," (Nhựa đường) - bức tranh nổi tiếng nhất của Derain

Andre Derain chịu ảnh hưởng của Van Gogh trong việc sử dụng các sắc độ khác nhau của đỏ-vàng-xanh, nhóm chúng thành những mảng màu lớn để diễn tả ánh sáng, lại học từ Gauguin việc bỏ qua các nguyên tắc về tỷ lệ, xa gần. Cảnh gần và cảnh xa trong bức tranh hầu như không có sự khác biệt.
Andre Derain, “Những vườn nho vào mùa Xuân”, 1904

Nhân vật nữa là Raoul Dufy, một người có thể ít tham vọng hơn Derain, song không kém phần thành công. Dufy đến với Fauvism khá muộn màng và ban đầu ông học hỏi phần lớn từ Matisse, nhưng rất nhanh chóng, ông xác lập được phong cách của riêng mình. Giống như Derain, ông yêu thích những bố cục lạ, không gian hai chiều, và những yếu tố như nhà cửa, cây cối, kiến trúc. Màu sắc của Dufy tuy nhiên lại dịu hơn, và có thể nói là “Pháp” hơn nhiều những Dã thú khác.

Những ngôi nhà cũ dọc bến cảng Honfleur, tranh của Dufy. Ông thường dùng màu xanh lam đậm để làm nổi lên những sắc tím, hồng, lá cây nhạt. Những đường cọ rắn chắc đặc trưng của ông rất hợp với những khối chữ nhật của các căn nhà. Giống như Matisse, Dufy là một người tạo hình tài ba.

Trong tất cả những Dã thú, người được hưởng lợi nhiều nhất từ Fauvism có lẽ là Maurice de Vlaminck. Là người bạn thân thiết của Derain, hai người đã từng cùng nhau hợp tác sản xuất vài cuốn tiểu thuyết … người lớn có tranh minh họa trước khi bắt tay vào sự nghiệp hội họa nghiêm túc hơn. Được truyền cho niềm cảm hứng mới về cấu trúc lẫn màu sắc, Vlaminck sản xuất một series các bức tranh vẽ trên bờ sông Seine.

Maurice de Vlaminck, “Sông Seine ở Chatou”, 1906
Một khi rơi khỏi ảnh hưởng của Fauvism, tranh của Vlaminck ngay lập tức trở lại “sền sệt” như trong bức "Người đàn ông hút thuốc":
.
Nhiều người đoán sự thất bại của Vlaminck là do việc ông sử dụng trắng và đen không phải như màu sắc, mà là để gây hiệu quả sáng-tối trong tranh; điều này về cơ bản là đi ngược lại quy tắc của Fauvism.
Ngoài ra, có rất nhiều họa sĩ bị ảnh hưởng bởi Fauvism theo một cách nào đó: Fries, Marquet, Manguin, và Braque – người sáng lập ra Cubism.
Fauvism, với sự nhấn mạnh vào những đường cọ xuất chúng và các màu sắc rực rỡ, đã đem lại cho Derain và Vlaminck cơ hội tạo ra những bức tranh để đời, lại giúp cho những họa sĩ như Dufy xác định được bảng màu của mình, và biến Matisse trở thành một trong hai họa sĩ quan trọng nhất của nửa đầu thế kỉ 20.  Vì vậy, và chỉ cần vậy thôi, Fauvism xứng đáng được vinh danh là phong trào hội họa quan trọng đầu tiên sau Impressionism.

*

No comments:

Post a Comment