Wednesday, May 22, 2019

Những cái tên trong Hồng Lâu Mộng

Nhà phê bình kiêm lý luận văn học nổi tiếng người Pháp Roland Barthes từng nói: "Một cái tên [trong văn chương] luôn cần được phân tích kỹ lưỡng, bởi tên chính là vị chúa trùm của những biểu tượng." Trong trường hợp các nhân vật trong Hồng Lâu Mộng, tầm quan trọng của tên nhân vật lại càng rõ rệt hơn hết. Chi Nghiễn Trai là người đầu tiên quan tâm đến ý nghĩa đằng sau những cái tên trong Hồng Lâu Mộng. Đến thế kỉ 19, tác phẩm Hồng Lâu Mộng tuỳ bút (khuyết danh) lại tiếp tục đào sâu vào chủ đề hết sức thú vị này. Tính chất đặc biệt của tiếng Trung Quốc với vô số từ đồng âm hoặc hài âm đã biến công việc nghiên cứu Hồng Lâu Mộng trở thành một trò chơi tìm kho báu, qua đó tên nhân vật trở thành chìa khoá để mở những tầng lớp sâu xa của tác phẩm. Tạm thời có thể chia thành mấy loại:


1. Những cái tên gợi đến chủ đề của tác phẩm:

Tất cả những cái tên xuất hiện trong chương một của Hồng Lâu Mộng đều xứng đáng được phân tích kỹ càng. Ngay từ chương này, người đọc đã tiếp xúc với những địa danh mang màu sắc huyền bí, thần thoại: Đại Hoang Sơn (ngọn núi của sự hoang đường lớn) và Vô Kê Nhai (vách núi không có căn cứ, không được ghi lại). Từ hai cái tên trên có thể suy ra hai điều: những điều xảy ra từ nay về sau nói là mộng cũng được, là thực cũng được, hư hư ảo ảo, giả giả chân chân không biết đâu mà lần. Hơn thế nữa, việc bà Nữ Oa luyện đá vá trời cũng như việc họ Tào lấy chữ dệt lên câu chuyện Hồng Lâu Mộng, nói cho cùng, chỉ là hành động vô nghĩa, phi lý, không có ảnh hưởng gì tới cuộc sống thực. Đây là cái nhìn nhuốm màu sắc bi quan. Nhân vật chính (Bảo Ngọc) lại chính là hòn đá thừa thãi không được sử dụng đầu thai mà thành. Có thể suy ra rằng Tào Tuyết Cần đã gửi vào Hồng Lâu Mộng tinh thần chán nản, bất đắc chí vì thất bại trong đường hoạn lộ. Ba vạn sáu ngàn năm trăm hòn đá vá trời, kích cỡ cao mười hai trượng, vuông hai bốn trượng, tất thảy đều được trọng dụng, chỉ trừ có "Thạch huynh". 36500 là số ngày trong năm nhân với 100 lần, 12 và 24 là số tháng trong năm và số giờ trong ngày. Những chi tiết này ám chỉ rằng: câu chuyện về hòn đá có ý nghĩa vượt thời gian.

Tác giả Tào Tuyết Cần

Hòn đá bị bà Nữ Oa bỏ rơi tại Thanh Ngạnh Phong (đỉnh núi có cây xanh). Nghe qua thì tưởng chỉ là miêu tả đơn thuần, nhưng hai chữ "thanh ngạnh" lại hài âm với "tình căn" - cái gốc của tình. Nhờ vậy ta biết Hồng Lâu Mộng là câu chuyện của tình, và hòn đá này chính là cội rễ của lưới tình. Tiếp theo đó, hòn đá gặp hai vị Mang Mang đạo sĩ và Diểu Diểu chân nhân. Mang Mang miêu tả không gian mênh mông, rộng lớn. Diểu Diểu có nghĩa xa xăm, mờ ảo. Kết hợp lại ta có từ "diểu mang" (miaomang): không thật, không đáng tin. Hai người này đã mang hòn đá về chốn hồng trần, nhưng chính bản thân họ cũng là những sứ giả của sự mơ hồ. Về sau, một đạo nhân tên là Không Không (không tồn tại của không tồn tại, nghĩa là tột cùng của không) vì ngẫm nghĩ câu chuyện hòn đá mà đổi tên thành Tình Tăng (nhà sư tình). Điều này chứng tỏ câu chuyện hòn đá có sức cảm hoá ghê gớm, có khả năng biến không trở thành sắc (tình).

Ba vị Không Không, Mang Mang, Diểu Diểu

Trong truyện có nói: "Sau Tào Tuyết Cần mười năm đọc bộ sách này ở trong hiên Điếu hồng, thêm bớt năm lần, xếp thành mục lục, chia ra từng chương từng hồi, lại đề là Kim lăng thập nhị hoa."

Mấy chứ "Điếu hồng hiên" đồng âm với "Điếu hồng trần" - khóc cho trần gian. Chưa cần đọc đã hiểu Hồng Lâu Mộng tràn đầy bi kịch. Tiền kiếp của Bảo Ngọc và Đại Ngọc gặp nhau bên hòn đá Tam Sinh (ba kiếp) ám chỉ tình duyên của đôi trai gái này sẽ phải trải qua ba lần đầu thai mới có thể ở bên nhau. Khi Bảo Ngọc và Đại Ngọc gặp nhau mới là kiếp thứ hai, vì vậy số mệnh buộc phải chia lìa. Tiền kiếp của Đại Ngọc rong chơi ở tầng trời Ly Hận (hận vì phải xa nhau), ăn quả Mật Thanh (điều bí mật) uống nước bể Quán Sầu (nước để tưới sự buồn), tất cả đều báo trước cuộc tình thê thảm của nàng.

Bảo Ngọc và Đại Ngọc

Nhân vật dưới trần đầu tiên xuất hiện là Chân Sĩ Ẩn. Cái tên này có hai nghĩa. Thứ nhất, Chân Sĩ Ẩn hài âm với Chân Sự Ẩn, có nghĩa là giấu giếm đi nhưng sự thực. Tên tự Chân Sĩ Ẩn hài âm với Chân Sự Ẩn, có nghĩa là sự thật bị ẩn giấu đi. Chân Sĩ Ẩn lãnh vai trò dẫn dắt Hồng Lâu Mộng - một câu chuyện nửa hư nửa thực, ấy là dùng mộng để nói đời. Tên thật của nhân vật này là Chân Phí, lại đồng âm với Chân Phế, nghĩa là đồ vô dụng, phế phẩm. Nếu Chân Sĩ Ẩn là phản chiếu của Bảo Ngọc thì có thể kết luận Bảo Ngọc "đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi."

Thứ hai, Chân Sĩ Ẩn còn có nghĩa kẻ sĩ thực thụ (chân sĩ) trốn tránh sự đời (ẩn). Điều này nói lên bản chất cương trực, không màng danh lợi, lánh đời của họ Chân, về cơ bản giống với tính cách và quá trình giác ngộ của Bảo Ngọc.


Chân Sĩ Ẩn đi tu

Ngược lại, người hàng xóm xấu tính của Chân Sĩ Ẩn là Giả Vũ Thôn lại ham mê phù hoa. Giả Vũ Thôn có ba tên gọi khác nhau: tên chữ Giả Vũ Thôn đồng âm với Giả Ngữ Thôn (lời quê mùa không thật,) tên tục Giả Hoá đồng âm với Giả Thoại (lời giả dối,) và Giả Thời Phi đồng âm với Giả Thực Phi (việc không thật.) Qua đó có thể thấy nhân vật này là biểu tượng cho sự giảo quyệt, xảo trá. Số phận lên voi xuống chó của Giả Vũ Thôn là ẩn dụ cho sự thăng trầm của Giả phủ, một nơi hiểm ác và giả tạo. Thế nhưng tuy tính cách hoàn toàn trái ngược, Chân Sĩ Ẩn và Giả Vũ Thôn lại vô cùng thân thiết với nhau. Điều này ám chỉ rằng trong Hồng Lâu Mộng, sự thật (chân) và sự dối trá (giả) cũng quấn quít, đan xen bên nhau, khó có thể phân biệt.

Giả Vũ Thôn làm quan

Quay trở lại chương một, con gái của Chân Sĩ Ẩn có tên Anh Liên. Chữ "anh" có nghĩa là dũng cảm, còn "liên" (hoa sen) vừa đẹp vừa trong trắng tinh khôi. Tên cũng như người, Anh Liên (Hương Lăng) là người phụ nữ có nhan sắc và tính cách thẳng thắn, can trường chịu đựng sự hành hạ của Tiết Bàn, nhưng Anh Liên còn đồng âm với "ứng liên" (đáng phải thương xót). Số phận của Anh Liên từ đầu đến cuối Hồng Lâu Mộng buồn nhiều hơn vui do sự tàn nhẫn của Tiết Bàn, sự độc địa của Hạ Kim Quế. Sau này Hạ Kim Quế lại đổi tên nàng thành Thu Lăng. Hoa lăng là củ ấu, nhưng chữ “lăng” còn có nghĩa lăng mộ, chữ "thu" hài âm với "khưu" cũng có nghĩa là mồ mả. Ý đồ nham hiểm của Hạ Kim Quế muốn ám hại Hương Lăng đã được tác giả báo trước từ câu chuyện đổi tên tưởng chừng vô thưởng vô phạt này.

Chân Sĩ Ẩn bế Anh Liên lúc nhỏ

Anh Liên từ thân phận tiểu thư cao quý, do số phận trớ trêu mà trở thành nàng hầu của Tiết Bàn. Ngược lại, a hoàn của Chân Sĩ Ẩn vì đứng hái hoa, liếc nhìn Giả Vũ Thôn mà sau này một trở thành chính thất của quan, được bao người ngưỡng vọng. Tên của a hoàn này là Kiều Hạnh (hoa hạnh mềm mại). Thứ nhất, cái tên nói lên vẻ đẹp ngọt ngào, say lòng của nàng ta. Thứ hai, Kiều Hạnh đồng âm với "kiểu hãnh" - tốt số, may mắn. Cái tên đã nói lên vận mệnh "một bước lên bà" của Kiều Hạnh.


Giả Vũ Thôn và Kiều Hạnh

Có lúc tên tuổi mô phỏng vận mệnh. Bốn tiểu thư trong phủ Giả có tên là Nguyên Xuân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, bốn chữ đầu của bốn tên hợp lại hài âm với nguyên ưng thán tức (vốn nên than thở), phản ánh số mệnh hẩm hiu của bốn người.


Bốn cô Xuân

Có lúc tên tuổi ám chỉ ngũ hành: Lâm Đại Ngọc mệnh mộc (lâm - rừng), Sử Tương Vân mệnh thuỷ (mây bay trên sông Tương), Tiết Bảo Thoa mệnh kim (thoa quý), Vương Hy Phượng mệnh hoả (phượng đỏ),...


Mười hai người đẹp ở Kim Lăng

Có lúc tên tuổi lại được dùng để làm ẩn dụ cho Tình. Tần Khả Khanh, nàng dâu lẳng lơ của nhà họ Giả, có tên tục là Kiêm Mỹ - ôm trọn hai vẻ đẹp. Khi lạc vào giấc mộng tình trong buồng ngủ của Khả Khanh, Bảo Ngọc đã gặp và ân ái với một nàng tiên mang tên Kiêm Mỹ - người kết hợp vẻ đẹp của cả Bảo Thoa và Đại Ngọc. Chữ "tần" và chữ "tình" cũng hài âm với nhau, vì vậy Tần Khả Khanh chính là kẻ dẫn dắt Bảo Ngọc vào cõi tình - nơi chứa đựng tình cảm luyến ái của Bảo Ngọc với nữ nhi. Ngược lại, em trai nàng - Tần Chung, lại đại diện cho tình cảm đồng tính. Tần Chung đồng âm với "tình chung" - mối tình chung thuỷ. Cha của hai chị em nhà họ Tần tên là Tần Nghiệp, đồng âm với "tình nghiệp" - nghiệp chướng của tình.


Bảo Ngọc cùng Kiêm Mỹ ân ái

Trong cõi tình, Bảo Ngọc đã lần lượt gặp các nàng Si Mộng tiên cô, Chung Tình đại sĩ, Dẫn Sầu kim nữ, Độ Hận bồ đề. Bốn nàng tiên này chính là đại diện cho bốn giai đoạn của tình: đầu tiên là si mê, sau đó là chung tình, tiếp đến là sầu bi, cuối cùng là thù hận.

Bảo Ngọc và những nữ nhân bên mình

Có lúc tên tuổi không chỉ miêu tả nhân vật mà còn gắn liền với tư tưởng triết học mà tác giả muốn gửi gắm. Ở chương 73, ta bắt gặp Con Ngốc, một a hoàn nhỏ của Giả Mẫu. A hoàn này mới mười bốn tuổi, tính tình ngu đần, rất được Giả Mẫu yêu thích. Trong tác phẩm, tên của Con Ngốc là Xoạ Đại Tỷ (chị lớn ngốc). Theo Phật giáo, ngu ngốc đẻ ra tối tăm và đau khổ. Con Ngốc là một nhân vật phụ, nhưng sự xuất hiện của cô ta, dù ngắn ngủi, lại có ý nghĩa biểu tượng vô cùng to lớn, bởi nó đại diện cho sức mạnh đáng sợ của sự ngu dốt. Thứ nhất, việc Con Ngốc tìm được cái túi tú xuân với những hình ảnh chăn gối đã châm ngòi cho cuộc khám xét lớn trong nhà họ Giả, gián tiếp gây ra cái chết của Tình Văn. Ghê gớm hơn, kể từ đó cơ đồ nhà họ Giả tuột dốc không phanh, liên tiếp xảy ra những điều không may. Ngày mà các phu nhân nhà họ Giả ra lệnh khám xét người hầu trong nhà, trùng hợp thay, cũng là ngày nhà họ Chân bị triều đình chính thức điều tra. Thám Xuân đã nhận xét một cách ai oán:

"Các chị đừng vội, thế nào sau này các chị cũng có ngày bị khám đấy! Sáng hôm nay các chị chả bàn tán việc nhà họ Chân đấy à, chỉ mong được khám nhà, quả nhiên bây giờ được khám thực đấy. Dần dần rồi cũng đến lượt chúng ta thôi! Thế mới biết những nhà đại gia thế này, chỉ người ngoài đến thì một lúc không thể giết chết được. Chính đúng như người xưa đã nói: “Con sâu trăm chân, chết cũng không ngã!” Tất phải do người trong nhà giết lẫn nhau trước, mới tan nát, sạch sanh!"

Con Ngốc nhặt được túi Xuân Cung Đồ

Quả vậy, nói cho cùng, việc nhà họ Giả tan hoang cơ nghiệp đâu phải vì Con Ngốc, mà chính do sự ngu ngốc tồn tại sẵn trong con người họ: Phượng Thư mờ mắt vì tiền, Giả Xá ăn chơi đàng điếm, Giả Chính có mắt không tròng, người trong nhà đấu đá nhau, thi nhau ăn tiêu xả láng, kiếm tiền phi pháp. Con Ngốc ở đây chỉ đóng vai trò biểu tượng, đánh dấu cho một bước ngoặt lớn trong vận mệnh của nhà họ Giả.

Lần tiếp theo Con Ngốc xuất hiện cũng để lại hậu quả nghiêm trọng không kém. Giả Mẫu quyết định cho Bảo Ngọc kết hôn cùng Bảo Thoa. Trong thời gian chuẩn bị lễ cưới, Giả Mẫu ra lệnh cho tất cả mọi người giữ bí mật với Đại Ngọc và Bảo Ngọc, hy vọng rằng khi sóng gió qua đi, đôi tình nhân sẽ đành chấp nhận vận mệnh. Thế nhưng vào giờ phút sinh tử khi đám cưới sắp diễn ra, chính Con Ngốc lại vô tình cho Đại Ngọc biết tin động trời này. Vốn tưởng mình sẽ được kết hôn cùng Bảo Ngọc, Đại Ngọc đã bị cú sốc làm ngã quỵ. Nàng âu sầu mà chết, Bảo Ngọc sau đó cũng chán đời đi tu. Lại một lần nữa, sự ngu ngốc lại đem đến hỗn độn, khổ đau, chết chóc.

2. Những cái tên ám chỉ tính cách nhân vật:

Dùng tên để củng cố hoặc ẩn ý về tính cách nhân vật là một biện pháp cơ bản của văn học. Đặc biệt với các nhân vật mang họ Giả, trò chơi chữ giúp tác giả không cần tốn công sức mà vẫn có thể ám chỉ những phẩm chất tốt đẹp của họ là giả dối.

Đơn cử như ông cả của Ninh Quốc phủ mang tên Giả Kính. Đây là một đạo sĩ chỉ thích tu tiên thành bất tử, bỏ bê nhà cửa để ra sống chung cùng đạo sĩ. Chữ "kính" có nghĩa kính trọng, cũng hài âm với chữ "tịnh" - yên lặng. Thế nhưng kính trọng chỉ là giả mà tĩnh mịch cũng là giả, bởi Giả Kính là một kẻ dại dột. Niềm tin mù quáng của Giả Kính khiến ông ta chết vì nuốt kim đan.

Giả Chính cũng như vậy. Bên ngoài ông ta là một nhà nho điển hình, nhưng trên thực tế lại cổ hủ, cứng nhắc. Giả Chính: chân chính giả, nguỵ quân tử. Con trai ông ta, Giả Bảo Ngọc, cũng chỉ là một hòn ngọc giả, bởi thực ra chàng ta vốn là hòn đá vô dụng, đến kiếp này vẫn không làm được gì cho đời. Giả Xá lại là một kẻ dâm ô, ham mê phụ nữ. Chữ "xá" vốn có nghĩa tha tội, xá tội, nhưng Giả Xá không tha cho một phụ nữ nào được mắt, kể cả người hầu của mẹ. Nhận xét của các a hoàn về Giả Xá: "Lão già này thực là đê tiện quá! Hễ thấy ai hơi dễ coi là lão không chịu buông tha."

Giả Chính giáo huấn con trai

Không là ngoại lệ, ba nữ nhân vật chính là Đại Ngọc, Bảo Thoa, Diệu Ngọc cũng có những cái tên tượng trưng cho tính cách nhân vật.

Đại Ngọc là con người sống bằng cảm tính thay vì lý trí. Đại là thứ phấn màu đen dùng để kẻ lông mày, mà đôi lông mày là bộ phận có khả năng biểu đạt tình cảm rõ rệt trên gương mặt người phụ nữ: khi nhíu mày - phiền muộn, khi cau mày - giận dữ, khi nhướn mày - ngạc nhiên… Đôi lông mày điểm màu khói lạt, dường như cau mà lại không cau cũng của nàng chính là chi tiết đầu tiên đập vào mắt Bảo Ngọc cũng như độc giả. Phấn kẻ lông mày lại là thứ dễ tiêu tan, mau mờ nhạt. Cái tên đã nói lên bản chất thơ mộng, lãng mạn, song cũng rất đỗi mong manh của Đại Ngọc.


Đại Ngọc thổ huyết

Bảo Thoa lại là người phụ nữ cao quý, có dáng dấp của bậc mẫu nghi. Tên nàng - Bảo Thoa - là chiếc thoa đài các, tựa hồ rắn chắc, bền vững hơn hẳn thứ phấn phù du kia. Chất liệu của chiếc thoa cài tóc vốn phản ánh tầng lớp của người đàn bà trong xã hội: phụ nữ nghèo thì dùng thoa gỗ, thoa cành cây. Phụ nữ giàu có như Bảo Thoa thì cài thoa loan phượng bằng ngọc vàng quý giá. Thoa còn là vật dụng dùng để tạo kiểu tóc bằng cách uốn, kẹp, giữ. Nếu mái tóc mây để xoã biểu trưng cho sự phóng túng, tự nhiên, thì chiếc thoa chính là vật kìm hãm bản năng đó. Bảo Thoa cũng luôn giữ cốt cách đoan trang, tề chỉnh, là người tuân thủ chặt chẽ các quy ước của xã hội truyền thống.

Chữ "thoa" còn xuất hiện trong chương 62 dưới hai câu thơ khác nhau.

Bảo Ngọc nói:
- Chị ấy đố chữ “bảo” tất nhiên ở dưới chữ “bảo” phải là chữ “ngọc”. Tôi đoán chữ “thoa”, vì thơ cũ có câu: “Thoa ngọc gõ xong tàn đuốc lạnh”, đoán như thế chẳng đúng à?

Hương Lăng nói:
- Ngày trước tôi đọc thơ ngũ ngôn của Sầm Gia Châu có một câu: “Nơi này nhiều bảo ngọc”. Thế mà cô quên à? Sau đọc thơ thất ngôn tuyệt cú của Lý Nghĩa Sơn lại có một câu: “Thoa báu ngày nào không bám bụi?”

Hình ảnh "tàn đuốc lạnh" và "thoa bám bụi" đã báo trước số phận cô độc, hẩm hiu về sau của Bảo Thoa.


Tiết Bảo Thoa đùa bướm

Diệu Ngọc là cô gái xinh đẹp, tài hoa, có xuất thân quý tộc vào bậc nhất nhưng lại quy y làm ni cô. Diệu Ngọc vừa là thứ ngọc màu nhiệm, nhưng cũng đồng âm với "diệu dục" - thứ dục vọng phi lý. Diệu Ngọc thân đi tu nhưng từ hình tướng bên ngoài (để tóc dài, có người hầu hạ) đến suy nghĩ bên trong (khinh người nghèo khổ, ưa xa hoa, si mê Bảo Ngọc) đều trái ngược với triết lý của Phật pháp. Về cuối truyện, Diệu Ngọc rơi vào tay giặc cướp.Viên ngọc bị chà đạp trong bùn, người muốn giữ mình thanh cao lại rơi vào sự bẩn thỉu nhất, quả là một sự tréo ngoe của số phận.

Diệu Ngọc lên cơn mê sảng vì "điên tình"

Một nữ nhân vật phụ là Hình phu nhân, vợ của Giả Xá, cũng có cái tên phù hợp với tính cách của mình:

Phượng Thư thấy Hình phu nhân tính vốn khờ dại nhút nhát, chỉ tìm cách chiều chuộng Giả Xá để được yên thân, và tham vớ được nhiều tiền là thích, còn việc lớn nhỏ trong nhà đều mặc Giả Xá sắp đặt. Những khoản chi thu nào vào tay bà ta, thì tìm cách bớt xén thậm tệ. Bà ta thường lấy cớ Giả Xá hay hoang phí, ta phải tằn tiện, mới có thể bù vào. Trong bọn con gái, người hầu, không tin ai và cũng chẳng nghe ai.

Về địa vị mà nói, Hình phu nhân là người đàn bà đứng thứ hai trong Giả phủ, chỉ kém mỗi Giả mẫu. Nhưng trong cách hành xử bà ta hoàn toàn không được kẻ dưới khâm phục, bởi Hình phu nhân chỉ biết cúi đầu phục tùng Giả Xá, không hề đứng ra thu vén, quản lý công việc của gia tộc. Ngoài ra bà ta lại chiều ý chồng làm những việc vô luân, sẵn sàng ép kẻ thân cô thế cô làm vợ lẽ cho chồng, miễn không ảnh hưởng đến vị trí của mình. Chữ "hình" trong tên bà ta có hai cách viết, cách thứ hai 刑 nghĩa là bắt chước, làm theo, mô phỏng. Hình phu nhân quả thật giống như một con rối trong tay Giả Xá. Không phải ngẫu nhiên mà Hình phu nhân lại là người phát hiện ra Con Ngốc - sự kết hợp của hai cái ngây ngốc là khởi nguồn của tai hoạ.


Hình phu nhân dụ dỗ Uyên Ương làm vợ lẽ cho chồng

Tính cách vợ cả, nàng hầu của Tiết Bàn cũng được hé lộ qua những cái tên. Ở chương 80, Tiết Bàn là kẻ lăng nhăng vô lại, luôn thèm khát bạn tình mới. Bản dịch tiếng Việt gọi y là kẻ "được voi đòi tiên," còn trong nguyên tác là "đắc Lũng vọng Thục" (có đất Lũng lại mong đất Thục, chỉ lòng tham vô đáy.) Chữ "bàn" trong Tiết Bàn hài âm với từ "phán" (thèm muốn) và từ "tham" (tham lam). Mạt cưa gặp mướp đắng, Hạ Kim Quế lại là con người giả tạo, miệng nam mô bụng một bồ dao găm. Hoa quế vốn không nở mùa hè, do đó Hạ Kim Quế là một bông hoa giả, có sắc không hương. Kim Quế lại đồng âm với "quan quý" (矜貴) - kiêu căng, kiểu cách, đúng như mô tả về ả "tôn mình như đức Phật, rẻ người như bùn". Chữ "hạ" trong tên ả lại ám chỉ mùa hè làm tan chảy "tuyết" trong tên chồng (Tiết hài âm với tuyết). Bởi vậy mà vừa lấy nhau Tiết Bàn đã bị Hạ Kim Quế áp chế không ngửng đầu lên được.

Để phục vụ cho mục đích chia cắt Tiết Bàn khỏi Hương Liên, Hạ Kim Quế nghĩ ra cách sử dụng a hoàn nhỏ Bảo Thiềm. “Mình đương định bày binh bố trận làm hại Hương Lăng, chưa tìm được chỗ sơ hở, thì anh chàng đã lại lấm lét đến Bảo Thiềm. Mình hãy liều gán Bảo Thiềm cho hắn, thế nào hắn cũng thưa nhạt Hương Lăng. Thừa dịp ấy, ta sẽ gạt bỏ Hương Lăng, bấy giờ Bảo Thiềm là người của mình thì cũng dễ xử thôi”. Bảo Thiềm là đứa a hoàn tinh ranh, láu cá, và cũng không kém phần lẳng lơ. Chữ Thiềm đồng âm với chữ Sàm (ham muốn, thèm thuồng.) Trong nguyên tác, đến giờ ngủ, Kim Quế bảo Tiết Bàn thích ngủ đâu thì ngủ để khỏi thèm thuồng đến chết được, cũng sử dụng chữ Sàm (饞) này.


3. Những cái tên báo trước diễn biến câu chuyện:

Trong Hồng Lâu Mộng, nhiều khi tên của nhân vật được sử dụng như một thứ điềm báo nhằm phục vụ cho diễn biến của tác phẩm. Những cái tên này thường thuộc về những nhân vật phụ, ngoài rìa. Họ thường chỉ xuất hiện một lần duy nhất với mục đích dẫn dắt câu chuyện. Đơn cử như anh chàng xấu số Phùng Uyên. Khi được nhắc đến ở chương 4 thì Phùng Uyên đã thành người thiên cổ.

...người bị đánh chết ấy là con một nhà hương hoạn nhỏ, tên gọi Phùng Uyên, bố mẹ chết sớm, không có anh em, sống nhờ một cái gia tài nhỏ, tuổi độ mười tám, mười chín, tính thích chơi bời với đàn ông, không gần gũi con gái. Nhưng đây cũng là oan nghiệp kiếp trước để lại. Một hôm, anh ta ngẫu nhiên gặp nữ tỳ này, nhất định mua về làm thiếp, thề không chơi bời với đàn ông và cũng không lấy người thứ hai nào nữa. Vì thế, việc mua này, đối với anh ta, coi là trịnh trọng lắm, hẹn ba hôm sau, tốt ngày, mới đón về. Ngờ đâu đứa bán người lại ngấm ngầm đem con nữ tỳ bán cho nhà họ Tiết. Nó muốn cuỗm tiền của cả đôi bên rồi trốn đi. Ai hay nó chạy không thoát, cả hai đều bắt được, đánh nó gần chết. Nhưng sau đó không nhà nào muốn lấy lại tiền, chỉ đòi lấy người. Công tử họ Tiết sai đầy tớ đánh công tử họ Phùng một trận nhừ tử, khiêng về nhà, ba ngày sau thì chết.

Phùng Uyên là nạn nhân của Tiết Bàn. Chữ Phùng còn có thể đọc theo nghĩa 逢 (gặp phải), chữ Uyên lại hài âm với chữ Oan 冤 (oan khuất, oán hờn). Sự bất hạnh của Phùng Uyên đã được báo trước ngay từ cái tên.

Một nhân vật phụ khác là Trung Thuận Vương. Vị vương gia này là chủ của con hát Tưởng Ngọc Hàm và có mối tình đồng tính với y. Sau Tưởng Ngọc Hàm bỏ đi, kết thân với Bảo Ngọc. Vì Trung Thuận Vương sai người đến đòi của Bảo Ngọc mà khiến cậu ta bị Giả Chính đánh một trận thừa sống thiếu chết. Ở đây, cái tên của Trung Thuận Vương không nói về tính cách nhân vật mà dùng để ngụ ý chủ đề chương 33. Trung nghĩa là trung thành, Thuận tức là nghe lời. Vì lòng trung với vương gia mà Giả Chính đánh Bảo Ngọc, song cũng vì vâng lời Giả mẫu mà Giả Chính tha chết cho con trai.

(còn tiếp)

No comments:

Post a Comment