Sunday, April 9, 2017

Xem tranh để đón Phục sinh: Sáu bước đến Đồi Sọ

Trước khi có Thiên Chúa giáo, những tôn giáo đa thần coi mùa xuân là một khoảng thời gian đặc biệt. Xuân đến đồng nghĩa với động vật tỉnh dậy, cây cối nảy nở, trăm hoa đâm chồi sau một mùa ngủ đông lạnh lẽo. Đó cũng là lúc diễn ra những lễ hội tôn vinh sự sống lại của thiên nhiên. Ví dụ, ở Hy Lạp cổ đại, tín ngưỡng thờ Persephone coi mùa xuân là hiện thân của sự trở lại của nàng từ địa ngục tăm tối, và Persephone cũng được đồng hoá với những hạt giống đâm lên từ đất. Quanh ngày Xuân Phân thì có Lễ Phục sinh với những hoạt động tươi vui, gắn liền với sự sinh sản.

Tên tiếng Anh của lễ Phục sinh – Easter, được coi là bắt nguồn từ tên nữ thần Babylon Ishtar. Không phải ngẫu nhiên mà có tục săn tìm những quả trứng – biểu tượng của sự sống đang thành hình; lý do tương tự khiến loài thỏ mắn đẻ được coi là biểu tượng của lễ Phục sinh.


Trang trí Phục Sinh ở nhà tôi


Khi Thiên Chúa giáo trở nên lớn mạnh, những tín ngưỡng cũ bị coi là tà giáo, nhưng những kẻ cầm quyền đã rất khôn ngoan: bằng cách kết hợp những tục lễ đã có sẵn với những câu chuyện trong thần học của Thiên Chúa giáo, họ khiến những người dân dễ dàng chấp nhận những đức tin mới hơn. Sự phục sinh của Chúa và lễ Phục sinh do đó được cử hành cùng một thời điểm, giữa những người theo đạo và cả không theo đạo. Lễ Phục sinh của Thiên Chúa giáo có nhiều điểm giống Lễ vượt qua của Do thái giáo, khi Moses chỉ bảo cho những người Do Thái đánh dấu lên cửa để thoát vạ chết con trai. Trong tiếng Hy Lạp và Latin, lễ Phục sinh có tên là Pascha, lấy từ tên của Lễ vượt qua (Passover.)

Lễ Phục sinh trong Thiên Chúa giáo có liên quan mật thiết đến toàn bộ những sự kiện diễn ra trước, giữa, và sau sự khổ hình của chúa Jesus. Trong bài này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu những sự kiện quan trọng này dưới lăng kính của hội họa.

Số một: Sự hấp hối trong vườn

Gethsamane (ép dầu) là một khu vườn ở chân núi Olives, nơi Chúa Jesus cầu nguyện đêm trước ngày lên Thập giá. Ngày nay, khu vườn là một điểm hành hương quan trọng. Ngay sau bữa tiệc chia ly, Jesus và các tông đồ Peter, John, và James đi dạo trong vườn. Trong khi các tông đồ ngủ say, Jesus trải qua nỗi đau khổ cùng cực và cầu khẩn Đức Chúa cha trong những giờ phút cuối cùng. Theo phúc âm Luke, những giọt mồ hôi của ngài giống như những giọt máu lớn rơi xuống đất. Một thiên thần phải bay tới để nâng đỡ tinh thần ngài.
“Agony in the garden," (Nỗi đau đớn trong vườn) của Andrea Mantegna, 1458-1460

Trong bức tranh, thành phố có tường bao bọc chính là Jerusalem. Lúc đó vùng đất thánh đang ở dưới ách thống trị của La Mã, do đó những tòa nhà đều mang hơi hướng kiến trúc La Mã cổ (có thể thấy một nhà hát giống như phiên bản mini của đấu trường Colosseum.) Ba vị tông đồ ngủ ngon lành dưới đất, chồng chất lên nhau. Thay vì một thiên thần, trong tranh có nhiều thiên thần nhỏ mang đến cho Jesus cây thánh giá. Ở phía xa xa, Judas và những tên lính đang trên đường tới để bắt giữ Chúa. Trên cành cây góc phải là một con kền kền chờ ăn xác chết, nhưng ở bên trái của tranh, dưới các thiên thần lại là những chú thỏ của sự sinh sôi nảy nở. Bức tranh bao gồm cả quá khứ và tương lai, sự sống và cái chết.

Số hai: Judas Iscariot phản Chúa

Sau khi được tiếp thêm sức mạnh tinh thần từ thiên thần, Chúa Jesus đã có đủ bình thản để đi những bước cuối cùng đến cái chết. Judas biết rõ khu vườn Chúa hay đi dạo và hắn đã dẫn những tên lính đến bắt ngài, tất cả chỉ vì 30 đồng bạc trắng. Nụ hôn của Judas dành cho Chúa là để những tên lính biết ai là người chúng cần bắt.

Trong bức tranh này của Caravaggio, gương mặt Chúa tỏ rõ sự chấp nhận, chú ý đôi bàn tay người đan chặt vào nhau. Khác với thường lệ, Caravaggio vẽ bức tranh này trên một tấm toan màu tối. Ánh sáng chiếu vào những gương mặt và bàn tay làm nổi rõ cảm xúc của các nhân vật. Người đàn ông ở mé ngoài cùng bên phải giơ tay cầm đèn lồng chiếu sáng chính là họa sĩ Caravaggio.

“The betrayal of Christ," (Phản chúa) của Caravaggio, 1603

Trong cuộc vật lộn giằng co, thánh Peter dùng kiếm cắt tai của tên tùy tòng Malchus, hòng bảo vệ Chúa. Chi tiết này có thể được thấy trong bức sau:
“The betrayal of Christ," (Phản Chúa) của Ugnolio di Nerio, 1325. Thánh Peter ở bên phải tranh, mặc áo xanh. Judas áo đỏ, giả vờ hôn Chúa cho lính đến bắt.

Hoặc rõ hơn trong bức sau:
“The capture of Christ," (Chúa Jesus bị bắt) vô danh

Tuy nhiên chứng kiến cảnh đổ máu, đức Chúa đã chạm vào chỗ đứt và khiến cái tai lành lại như cũ. Đây là phép màu cuối cùng trước khi Chúa bị đóng đinh.


Số ba: Ecce Homo


Cụm từ Latin Ecce Homo có thể dịch nôm na là “Hãy nhìn người này”. Đây là câu nói của Pontius Pilate trong phúc âm của John. Pontius Pilate là tổng trấn La Mã, quan tòa trong tòa Công luận xử tội Jesus, và là người đã thông qua việc đóng đinh câu rút, dù trong cả bốn phúc âm, Pilate đều không muốn Jesus phải chết.

Khi Pilate đưa Jesus ra trình diện trước đám đông, thân Chúa bị trói chặt, trên đầu người đội mão gai, các trưởng lão thúc giục dân chúng đòi hỏi Pilate xử tử Chúa và tuyên bố rằng Ceasar là vị vua duy nhất trị vì được họ. Trong phúc âm của Matthew, Pilate đã rửa tay để chứng tỏ mình không nhúng vào kế hoạch hãm hại Jesus.

“Ecce Homo”, của Rembrandt, 1634

Trong bức “grisaille” (bản vẽ phác không màu để chuẩn bị cho một bức họa hoàn chỉnh) này, có thể trông thấy bức tượng bán thân của Ceasar ở phía tay phải – biểu tượng của Đế quốc La Mã. Những tên trưởng lão được Rembrandt miêu tả méo mó, biến dạng, xấu xa. Giống như những tác phẩm miêu tả Ecce Homo khác, trong bức tranh này, đôi mắt của Jesus nhìn xuống, dáng vẻ chấp nhận. Tư thế của tổng trấn Pilate diễn tả sự đấu tranh nội tâm quyết liệt và bất lực mà ông phải trải qua.


Số bốn: Thần khí Cơ đốc giáo chiêm nghiệm Chúa


”Christ contemplated by the Christian soul," (Thần khí Cơ đốc giáo chiêm nghiệm Chúa) của Velasquez, 1628

Đây là một cảnh hiếm khi được diễn tả trong hội họa. Theo lệnh của Pilate, Jesus bị trói tay vào cột, bị quân lính đánh đập bằng roi và cành củi khô. Trong tranh ta có thể thấy những dụng cụ tra tấn thấm máu vương vãi trên sàn nhà. Theo lời khẩn cầu của thiên thần bảo hộ (áo đỏ,) thần khí Cơ đốc giáo đã kết thành một đứa trẻ, quỳ bên cạnh để chiêm nghiệm sự thống khổ của Jesus.

Số năm: Con đường khổ nạn

Đồi Sọ, hay còn gọi là đồi Can-vê (Calvary) là nơi cây thập giá đóng đinh Chúa được dựng nên cách đây hơn 2000 năm. Vết tích duy nhất còn lại là một cái lỗ tròn, hiện tại nằm dưới bàn thờ thuộc quyền cai quản của Chính thống giáo Đông Phương, một khu vực tôn giáo nhạy cảm vì dễ xảy ra tranh cãi giữa các phe phái đối lập. Theo ghi chép của các Phúc âm, Đức Chúa tự vác cây thập giá trên vai. Ở bên trái có ba người phụ nữ trên đầu tỏa hào quang, đó chính là ba Mary:

– Đức Mẹ Mary, mặc áo xanh ở ngoài cùng, cạnh trái tranh, gương mặt hoảng loạn
– Mary Magdalene, cúi đầu buồn rầu
– Mary, vợ của Clopas, anh ruột thánh Joseph, không rõ mặt

“Procession to Calvary," (Đường đến đồi Sọ) của Andrea di Bartolo, 1415

Sau khi vác cây thánh giá lên vai, Chúa Jesus đã ngã một lần, rồi mới gặp lại Đức Mẹ. Tổng cộng trên con đường tới Can-vê, Đức Chúa ngã cả thảy ba lần. Người đàn ông đỡ cây thập giá giúp Chúa tên là Simon xứ Cyrene. Trong bộ phim Passion of Christ của Mel Gibson, Simon tuy không thích nhưng bị quân lính bắt ép phải nâng cây thập giá, nhưng dần dần y đã tỏ lòng thương mến Jesus và giúp ngài mang nó lên tới đỉnh đồi.


Số sáu: Đóng đinh


Đóng đinh là hình phạt của đế quốc La Mã dành cho những người Do Thái chống đối. Tuy nhiên trong bức tranh của Raphael, cảnh tượng lại yên bình, thơ mộng với các tông màu đậm nhạt của hồng và xanh lá.

“The Mond Crcifixion," (Bức tranh đóng đinh câu rút của nhà Mond) của Raphael, 1502

Hai thiên thần cầm những chén rượu lễ hứng máu nhỏ ra từ người Jesus – chính là rượu thánh dùng trong lễ Mass. Gương mặt của Chúa bình thản như đang ngủ.

Như trong truyền thống, hai người đứng hai bên Jesus là Đức Mẹ (áo xanh lam đậm) và thánh John, Tông đồ thánh sứ, người sẽ đón Đức Mẹ về chăm sóc theo lời trăn trối của Jesus, một trong bảy lời trăn trối cuối cùng của ngài trước khi chết. (Theo Phúc âm của John, Jesus đã nói với Đức Mẹ về John: “Này bà ơi, kia là con của bà.”)

Quỳ dưới đất là Mary Magdalene, và thánh Jerome.

Bức họa này nằm trong tổng thể bàn thờ do nhà Mond đặt hàng dâng tặng thánh Jerome, điều đó giải thích cho sự có mặt của Jerome trong bức tranh. Mặt trăng và mặt trời trong tranh vẫn hiện diện mặc dù Hội đồng Constantinople đã cấm việc miêu tả chúng trong nghệ thuật (vì dễ làm liên tưởng đến các tôn giáo thờ trăng sao.)

Số bảy: Chúa hứa thiên đàng cho kẻ trộm

“Christ on the Cross between the two thieves," (Chúa trên câu rút giữa hai tên trộm) của Peter Paul Rubens, 1619

Tất cả bốn Phúc âm đều kể về hai tên trộm cùng bị đóng đinh với Jesus, một bên phải, một bên trái. Theo Phúc âm của Mark và Matthew, cả hai tên trộm cùng chế giễu, cười cợt Chúa, rằng nếu ngài quả thực là đấng Cứu thế, cớ sao ngài không thể tự cứu mình? Tuy nhiên phúc âm Luke thuật lại rằng tên trộm bên phải, hay còn được gọi là tên trộm lành (the good thief) đã mắng tên bên trái rằng:” Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Sau đó tên trộm lành đã khẩn cầu Jesus: ”Xin Ngài nhớ đến con khi Ngài về vương quốc.” Và chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, tên trộm đã quy phục, phó thác cho ý Chúa, và y đã được Chúa cho thỏa ý nguyện. Chúa phán rằng tên trộm lành sẽ được cùng với Chúa ở Thiên đàng ngay hôm đó! Sự chuộc tội này có điểm tương đồng với khái niệm “buông dao thành Phật” trong triết học Đông Á. Tuy tên của tên trộm lành không được tiết lộ, song y thường được nhắc tới với tên thánh Dismas.


Số tám: Hạ thi thể Chúa từ cây thập tự

“Deposition of Christ from the Cross," (Hạ thi thể Chúa từ Thập giá) của Rogier van de Weyden, 1435

Cảnh hạ Chúa từ cây thập tự giá là một chủ đề thách thức đối với nhiều họa sĩ, vì nó đặt ra nhiều bài toán hóc búa về bố cục, cách dàn xếp các nhân vật và khắc họa các thái cực tình cảm phức tạp. Số lượng nhân vật trong cảnh này không có giới hạn, ngoại trừ ba nhân vật: Joseph xứ Arimathea, Nicodemus, và Chúa Jesus. Joseph đã hiến tặng ngôi mộ của mình cho Chúa, và hai người giúp đưa thi thể của Chúa xuống từ cây thập giá.

Vào thời Trung cổ, những chi tiết được thêm thắt vào cho cảnh Khổ nạn thêm phần kịch tích, trong đó có spasimo – tên gọi mà các nhà thần học dành cho motif Đức Mẹ đau khổ trước cảnh cái chết thảm của Chúa. Cái sọ người ở bên cạnh tay của Đức Mẹ chính là đầu lâu của Adam. Nơi chôn cất của Adam và địa điểm đóng đinh câu rút được coi là cùng một chỗ. Người phụ nữ có điệu bộ kịch tích ở bên phải chính là Mary Magdalene, bình đựng dầu thơm được người hầu đỡ ở bên cạnh bà. Những người phụ nữ còn lại trong tranh là Mary Salome và Mary từ Clopas, những người chị em của Đức Mẹ.


Số chín: Đức Chúa được táng trong mộ


“The entombment of Christ," (Táng chúa Jesus) của Caravaggio, 1602

Các Phúc âm đều ghi chép rằng sau khi Chúa bị đóng đinh trên Thập giá vào thứ sáu, Joseph xứ Arimathea đã bọc thi thể Chúa trong tấm vải liệm trắng rồi đưa vào ngôi mộ ông đã cung hiến. Thân thể đã cứng lại của Chúa (rigor mortis) là tâm điểm của bức tranh, ánh sáng tàn nhẫn chiếu vào ngài như ánh đèn trên bàn giải phẫu.

Theo Phúc âm của Mark, hành động xin thi thể của Jesus từ tổng trấn Pilate đế đưa đi chôn cất chưa chắc đã chứng minh được Joseph là một kẻ theo đạo, mà vì luật Do Thái yêu cầu mọi xác chết đều cần được khâm liệm tử tế. Người mặc áo đỏ, gương mặt gần nhất với Jesus là thánh John. Đức Mẹ Mary được miêu tả với gương mặt của một người phụ nữ già nua đau khổ, thay vì cách xử lý theo hướng lý tưởng hóa thường khiến Mary nhìn… trẻ hơn cả Jesus.

“Pieta”, của Michelangelo, 1498

Số mười: Chúa Jesus Phục sinh


Sự kiện quan trọng nhất trong chuỗi các hoạt động hướng tới lễ Phục Sinh, thực ra lại không hề được ký thuật trong Kinh Thánh. Các Phúc âm chỉ kể lại rằng những nữ môn đồ của Chúa quay trở lại ngôi mộ của Chúa vào ngày Chủ Nhật để hoàn thành nghi lễ chôn cất cho người, nhưng lại thấy ngôi mộ trống không! Số lượng các nữ môn đồ có thay đổi, nhưng Mary Magdalene là nhân vật chủ đạo.

Như vậy Chúa đã phục sinh ba ngày sau khi bị đóng đinh trên thập giá. Sự hy sinh của Chúa để cứu chuộc loài người là nền tảng quan trọng nhất của Cơ đốc giáo. Nếu Chúa không phục sinh thì toàn bộ niềm tin của tín đồ vào sự cứu chuộc và tự cứu chuộc là vô ích. Vì thế tuy diễn biến của sự Phục sinh không được miêu tả (vì không có ai được tận mắt chứng kiến), trí tưởng tượng phong phú của các họa sĩ đã biến cảnh tượng này thành cảnh có yếu tố thần thánh nhất trong toàn bộ quy trình Khổ nạn-Phục sinh. Như trong bức tranh sau, ánh sáng rạng rỡ của Chúa khiến những người lính gác mộ choáng ngợp. Tuy lòng bàn tay Chúa còn dấu vết đóng đinh, thân thể ngài hoàn mỹ và đẹp đẽ.


“Resurrection of Christ," (Chúa hồi sinh) của Matthias Grunewald, 1512, thuộc Isenheim Altarpiece

Số mười một: Noli me Tangere

“Noli me Tangere”, tiếng Latin, có nghĩa là “Đừng chạm vào ta.” Đây là những lời Jesus nói với Mary Magdalene sau khi bà nhận ra ngài (đã phục sinh). Chúa hiện ra để an ủi bà, nhưng ban đầu bà tưởng Chúa là một người làm vườn. Tuy nhận ra bà muốn chạm vào ngài, song Jesus không muốn điều đó xảy ra vì ngài sắp lên thiên đàng và không muốn những đồ đệ bám víu lấy hình hài của mình.

“Noli me Tangere”, của Titian, 1511

Khi người ta chiếu tia X lên bức tranh này của Titian, có những dấu vết chứng tỏ họa sĩ lúc đầu vẽ Jesus đội một chiếc mũ của người thợ làm vườn, song họa sĩ đã thay đổi ý định. Quang cảnh phía sau hai nhân vật chính là một ẩn dụ lớn: bên phía của Mary Magdalene, những mái nhà lúp xúp là biểu hiện của thế tục, của cõi trần. Cái cây chia đôi bức tranh, giống như Chúa và Mary Magdalene đã thuộc về hai thế giới khác nhau. Những cành cây hướng lên trời là biểu tượng của một sự sống mới của người trên thiên đàng.


Số mười hai: Chúa tái ngộ các môn đệ ở Emmaus


Một điểm quan trọng cần lưu ý về sự Phục sinh của Chúa, đó là: ngài sống lại không phải để kéo dài cuộc sống 33 năm trên trần thế, mà là bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới. Khi xuất hiện với các môn đệ, tuy vẫn mang hình hài con người, song Chúa không còn bị giới hạn bởi những quy tắc vật lý thông thường: ngài không thể bị giam cầm, và có thể chợt đến chợt đi, hoặc hé lộ danh tính cho những người ngài chọn.

Một đặc điểm nữa: Chúa không hé lộ sự Phục sinh cho tất cả mọi người, chỉ riêng những tông đồ ngài chọn từ trước, những người đã cùng ăn cùng uống với ngài, để trấn an họ. Thomas Aquinas cho rằng những tông đồ được nhìn thấy Chúa là vì họ có con mắt thứ ba, Oculata fide, hay là “con mắt đức tin.” Để nhìn thấy sự Phục sinh của Chúa, cần có đức tin.

Trong câu chuyện về bữa tối ở Emmaus (Ê-mau,) hai tông đồ (thường được cho là Luke và Cleopas) tới thành Emmaus, bàn tán về nỗi thất vọng khi đấng Cứu thế bị loài người hãm hại. Song đúng lúc đó Chúa đã hiện thân trước mặt họ, và rồi biến mất. Sự kiện này chỉ có hai tông đồ trên chứng kiến, và là một trong chuỗi những lần hiện thân của Chúa sau Mary Magdalene. Bốn mươi ngày sau Phục sinh, Chúa lên trời.

“Supper at Emmaus," (Bữa tối ở Ê-mau) của Caravaggio, 1601

Trong bức tranh, người đàn ông phía sau Chúa hoàn toàn không biết điều gì đang diễn ra. Hình dáng của Chúa khác, không còn bộ râu, đúng như Phúc âm của Mark ghi chép rằng ngài đã hiện ra với một hình dạng mới. Bức tranh diễn tả một giây phút kỳ diệu, vừa thần thánh vừa con người. Đĩa thức ăn ở mép bàn như sắp rơi là ẩn dụ cho sự chênh vênh của thế giới sau khi Jesus mất đi – nỗi sợ của những tông đồ. Nhưng ngài đã phục sinh và hiển linh để hồi lại đức tin cho họ.

Vậy là, tóm lại, người theo đạo cho rằng, trên thập giá, Chúa đã cứu rỗi loài người. Và qua việc Phục sinh, Chúa đã thống trị được cái chết. Nhờ có sự phục sinh của Chúa, con người không còn bị khép vào chu kì sinh-lão-bệnh-tử, mà có thể trở thành sinh-lão-tử-phục sinh. Nếu nấm mồ của Chúa không phải điểm đến cuối cùng của Chúa, thì con người cũng có thể được cứu rỗi và có một cuộc đời mới trên… Thiên đàng. Chết không phải là Hết, sự Phục sinh của Chúa đã thiết lập và khẳng định niềm tin ấy.

*

No comments:

Post a Comment